Luận án Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật một số quốc gia dưới góc độ so sánh
Bạn đang xem tài liệu "Luận án Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật một số quốc gia dưới góc độ so sánh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_an_nguyen_tac_thien_chi_trong_phap_luat_hop_dong_viet_n.pdf
nguyenanhthu_tom_tat_eng_9468 (1)_2311087.pdf
Nội dung tài liệu: Luận án Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật một số quốc gia dưới góc độ so sánh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2020
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự Mã số: 9 38 01 03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2020
- 1 MỞ ĐẦU Nguyên tắc thiện chí là nguyên tắc cơ bản của hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, khoa học pháp lý Việt Nam dường như chưa có sự quan tâm đúng mức đến nguyên tắc này. Điều này được thể hiện qua số lượng cũng như mức độ chuyên sâu của các công trình nghiên cứu đề cập đến nguyên tắc này cũng như thực tiễn vận dụng nguyên tắc thiện chí của Tòa án Việt Nam để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Với sự ra đời của BLDS 2015, phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc thiện chí đối với quan hệ hợp đồng Việt Nam đã được mở rộng đến mọi giai đoạn của đời sống hợp đồng: tiền hợp đồng, thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, việc ghi nhận nguyên tắc thiện chí mang tính khái quát cao trong khi các quy định là biểu hiện của nguyên tắc thiện chí được ghi nhận trong của BLDS 2015 còn hạn chế đã khiến nguyên tắc thiện chí chưa được nhận thức đầy đủ và nhất quán, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng cũng như chưa phản ánh được giá trị đích thực của Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đã và đang hướng tới. Trong khi đó, nguyên tắc thiện chí được xem là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các hệ thống pháp luật hiện đại ghi nhận nguyên tắc này như Đức, thậm chí tại một số hệ thống pháp luật không thừa nhận nguyên tắc thiện chí chung như Anh cũng vận dụng nguyên tắc này hoặc các biến thể của nó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Với những lý do trên, nghiên cứu nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam là yêu cầu khách quan cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Do vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật một số quốc gia dưới góc độ so sánh” sẽ có giá trị lý luận và thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Đức, Anh và Việt Nam. Trong đó đối với pháp luật hợp đồng Việt Nam, BLDS 2015 sẽ được sử dụng với tính cách là đối tượng nghiên cứu chính. Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận, đề tài cũng nghiên cứu các bản án, quyết định của ba hệ thống pháp luật để minh họa cho các kết quả nghiên cứu lý luận. Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam trên cơ sở so sánh đối chiếu với pháp luật hợp đồng Đức và Anh. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định là biểu hiện của nguyên tắc thiện chí trong BLDS 2015 theo xu hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Với mục đích này, luận án có nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thiện chí; Nghiên cứu so sánh nguyên tắc thiện chí và các biểu hiện của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật hợp đồng của Đức và Anh (đại diện cho truyền thống Civil law và Common law); Đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của BLDS năm 2015 là biểu hiện của nguyên tắc thiện chí. Để đạt được mục đích đặt ra, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đối với pháp luật hợp đồng Việt Nam, luận án sẽ sử dụng các phương pháp luận đã nêu trên cơ sở quan điểm, mục tiêu, đường lối của Đảng và Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Những đóng góp mới của luận án gồm: Thứ nhất, Luận án xây dựng một cách có hệ thống các vấn đề lý luận của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng, bao gồm khái niệm nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, chỉ ra đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng cũng như phạm vi
- 2 của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Đức, Anh, Việt Nam. Thứ hai, luận án phân tích các học thuyết có liên quan tới nguyên tắc thiện chí trên thế giới cũng như quan điểm của các học giả nổi tiếng trên thế giới về khái niệm thiện chí trong pháp luật hợp đồng. Từ đó luận án đưa ra khái niệm nguyên tắc thiện chí mang tính gợi mở cho pháp luật hợp đồng Việt Nam. Thứ ba, luận án phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn vận dụng nguyên tắc thiện chí trong giai đoạn tiền hợp đồng dưới góc độ so sánh pháp luật hợp đồng Đức, Anh và Việt Nam. Cụ thể, Luận án đi sâu phân tích biểu hiện của nguyên tắc thiện chí trong việc điều chỉnh hành vi đáng trách dẫn tới hợp đồng không được ký kết và hành vi đáng trách dẫn tới hợp đồng vô hiệu. Thứ tư, luận án phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn vận dụng nguyên tắc thiện chí trong giai đoạn thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng dưới góc độ so sánh pháp luật hợp đồng Đức, Anh và Việt Nam cùng với việc nghiên cứu một số bản án, quyết định điển hình. Cụ thể là luận án đi sâu phân tích biểu hiện của nguyên tắc thiện chí trong việc điều chỉnh hợp đồng có nội dung không rõ ràng, hợp đồng thiếu nội dung không cơ bản, hợp đồng chứa đựng nội dung bất công, việc thực hiện hợp đồng dẫn tới bất công do hoàn cảnh thay đổi cơ bản và hạn chế quyền chấm dứt hợp đồng của bên bị vi phạm. Thứ năm, luận án chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong các quy định biểu hiện nguyên tắc thiện chí trong các giai đoạn của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam và đề xuất kiến nghị hoàn thiện BLDS 2015 trên cơ sở tiếp thu pháp luật nước ngoài, sự phù hợp với lý thuyết hợp đồng Việt Nam và thực tiễn xét xử ở Việt Nam. Ngoài phần mở đầu, tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài luận án, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chương: Chương 1. Khái quát chung về nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Chương 2. Nguyên tắc thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng Chương 3. Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện và chấm dứt hợp đồng
- 3 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG 1.1. Khái niệm thiện chí và nguyên tắc thiện chí Dựa trên một số cách tiếp cận khái niệm thiện chí điển hình trên thế giới, NCS đồng tình với nhận định chung là không cần thiết đưa ra định nghĩa chính xác về nguyên tắc thiện chí bởi không một định nghĩa nào có thể khái quát được toàn bộ nội hàm của nguyên tắc này. Do có nội hàm mở, mềm dẻo cho phép áp dụng linh hoạt để điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực hợp đồng nên nguyên tắc thiện chí nên được Tòa án xác định và hoàn thiện dần thông qua thực tiễn xét xử. Tuy nhiên, để có bước khởi đầu trong việc xây dựng nội hàm của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, NCS mạnh dạn đưa ra khái niệm thiện chí mang tính gợi mở cho pháp luật hợp đồng Việt Nam trên cơ sở ba cách tiếp cận đầu như sau: Thiện chí là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong giai đoạn tiền hợp đồng, thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng. Nguyên tắc thiện chí tạo ra chuẩn mực ứng xử cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng dựa trên các tiêu chí hành xử trung thực, hợp lý trên tinh thần hợp tác và quan tâm đến lợi ích của nhau, loại trừ các hành xử có dụng ý xấu cũng như mọi hành xử trái với sự tin tưởng hợp lý của đối tác. 1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của nguyên tắc thiện chí Nguyên tắc thiện chí có 5 đặc điểm gồm: Nguyên tắc thiện chí là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng chứa đựng các giá trị đạo đức; Nguyên tắc thiện chí là công cụ truyền tải các giá trị tốt đẹp của Hiến pháp vào pháp luật hợp đồng; Nguyên tắc thiện chí có nội dung biến đổi linh hoạt; Nguyên tắc thiện chí là nguồn của pháp luật hợp đồng; Nguyên tắc thiện chí là nguồn tạo ra nghĩa vụ. Các đặc điểm nêu trên chính là các yếu tố quyết định ý nghĩa quan trọng của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng gồm: là công cụ hữu hiệu đảm bảo cân bằng quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ hợp đồng; là công cụ hữu hiệu để bảo đảm cho các quyền con người về dân sự, kinh tế được ghi nhận trong Hiến pháp được tôn trọng và bảo vệ trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích của quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích công cộng; là công cụ linh hoạt có thể điều chỉnh mọi tình huống phát sinh trong đời sống xã hội khi thiếu vắng các quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp; định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật và cho phép Tòa án thông qua hoạt động xét xử đóng góp vào việc phát triển các quy phạm pháp luật mới; là công cụ định hướng cho cơ quan xét xử giải quyết các tranh chấp hợp đồng một cách chính xác, công bằng; bảo đảm cho sức sống lâu bền của BLDS. 1.3. Lược sử phát triển của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Nguyên tắc thiện chí là nguyên tắc được hình thành và phát triển trước hết dựa trên sự tin tưởng của con người với con người trong xã hội, tiếp đó nguyên tắc này còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các tư tưởng tôn giáo, đạo đức, triết học và sự phát triển của kinh tế xã hội. Do vậy sự phát triển của nguyên tắc thiện chí không thể tách rời với các quan điểm về đạo đức, tôn giáo và triết học. Mặc dù có xuất phát điểm là một khái niệm đạo đức nhưng cùng với sự phát triển của xã hội loài người, thiện chí đã dần được bồi đắp, làm phong phú để trở thành một khái niệm pháp lý. Ngày nay nguyên tắc thiện chí được xem là nguyên tắc cơ bản của hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới. 1.4. Phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Trong ba hệ thống pháp luật, phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Anh là khiêm tốn nhất khi chỉ ghi nhận nguyên tắc này trong việc điều chỉnh các điều khoản bất công trong hợp đồng tiêu dùng, hợp đồng bảo hiểm. Khác với pháp luật hợp đồng Anh, nguyên tắc thiện chí là một nguyên tắc quan trọng trong hệ thống pháp luật tư nói chung và pháp luật hợp đồng
- 4 nói riêng của Việt Nam và Đức. Mặc dù có sự khác biệt trong việc ghi nhận minh thị phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này nhưng cả hệ thống pháp luật Việt Nam và Đức đều thừa nhận nguyên tắc thiện chí có phạm vi điều chỉnh rộng, xuyên suốt toàn bộ đời sống của hợp đồng bao gồm giai đoạn tiền hợp đồng, thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng. 1.5. Mối tương quan giữa nguyên tắc thiện chí và nguyên tắc tự do hợp đồng Nguyên tắc tự do hợp đồng và nguyên tắc thiện chí là hai trụ cột chính của pháp luật hợp đồng. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc này được thể hiện qua việc nguyên tắc thiện chí là nguyên tắc được đặt ra nhằm khắc phục mặt trái của quyền tự do hợp đồng quá mức, bảo đảm quyền tự do hợp đồng của các bên cùng tồn tại một cách hợp lý cũng như bảo vệ cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Có thể nhận thấy nguyên tắc thiện chí không chỉ hỗ trợ cho nguyên tắc tự do hợp đồng (cũng như các nguyên tắc là hệ quả của nguyên tắc tự do hợp đồng) đạt được mục đích đặt ra mà còn khắc phục mặt trái của nguyên tắc tự do hợp đồng nhằm bảo đảm sự công bằng giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo vệ các giá trị đạo đức, trật tự công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
- 5 CHƯƠNG 2. NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ TRONG GIAI ĐOẠN TIỀN HỢP ĐỒNG 2.1. Mức độ ghi nhận nguyên tắc thiện chí trong giai đoạn tiền hợp đồng của pháp luật hợp đồng Đức, Anh và Việt Nam Pháp luật hợp đồng Việt Nam và pháp luật hợp đồng Đức tuy cùng ghi nhận nguyên tắc thiện chí chung trong giai đoạn tiền hợp đồng cũng như áp đặt trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ thiện chí nhưng mức độ ghi nhận nguyên tắc này của pháp luật hợp đồng Việt Nam hẹp hơn pháp luật hợp đồng Đức. Trong khi pháp luật hợp đồng Đức ghi nhận nghĩa vụ này ngay khi các bên bước vào đàm phán tiền hợp đồng thì pháp luật hợp đồng Việt Nam chỉ ghi nhận nghĩa vụ thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng khi các bên đã bước vào đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Pháp luật hợp đồng Anh tỏ ra miễn cưỡng trong việc thừa nhận nguyên tắc thiện chí chung cũng như nghĩa vụ thiện chí giữa các bên trong đàm phán tiền hợp đồng, do đó, nhìn chung không thừa nhận trách nhiệm pháp lý trong đàm phán tiền hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng Anh cũng áp đặt trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi không thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng dựa trên các học thuyết riêng lẻ (giải pháp từng phần). Nói cách khác, tuy có sự khác biệt về mức độ ghi nhận nguyên tắc thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng nhưng bằng các phương thức khác nhau, cả ba hệ thống pháp luật đều điều chỉnh những hành vi không thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng. 2.2. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng không được ký kết 2.2.1. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng không được ký kết trong pháp luật hợp đồng Đức Trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng, về nguyên tắc pháp luật hợp đồng Đức cho phép các bên chấm dứt đàm phán tiền hợp đồng mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Nói cách khác, pháp luật hợp đồng Đức trao cho các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng quyền lựa chọn tiếp tục đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng hay chấm dứt đàm phán mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với lựa chọn đó. Tuy nhiên, do tiếp cận nguyên tắc tự do hợp đồng dưới góc độ đạo đức xã hội nên pháp luật hợp đồng Đức cho rằng tự do ý chí của các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng phải hài hòa với các giá trị đạo đức xã hội, hay kết quả của ý chí tự nguyện của các bên (hợp đồng) phải hài hòa với lợi ích của xã hội và đàm phán tiền hợp đồng là một hình thức hợp tác thân thiện. Trên cơ sở đó, pháp luật hợp đồng Đức thừa nhận các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng có quan hệ nghĩa vụ đặc biệt (nghĩa vụ tiền hợp đồng) dựa trên sự tin tưởng hợp lý nên các bên không được có hành vi vi phạm nghĩa vụ thiện chí (hành vi có lỗi). Dựa trên nguyên tắc thiện chí, pháp luật hợp đồng Đức buộc bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ thiện chí phải chịu trách nhiệm pháp lý tiền hợp đồng (trách nhiệm gần như trách nhiệm theo hợp đồng). Những hành vi bị xem là vi phạm nghĩa vụ thiện chí gồm: (1) cắt đứt đàm phán tiền hợp đồng không có lý do chính đáng; (2) bắt đầu đàm phán mặc dù không có ý định giao kết hợp đồng; (3) tiếp tục đàm phán mặc dù không còn ý định giao kết hợp đồng. 2.2.2. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng không được ký kết trong pháp luật hợp đồng Anh Do không thừa nhận giữa các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng tồn tại quan hệ nghĩa vụ đặc biệt nên về nguyên tắc, pháp luật hợp đồng Anh không thừa nhận trách nhiệm pháp lý trong đàm phán tiền hợp đồng ngay cả khi một bên có hành vi chấm dứt đàm phán không thiện chí. Mặc dù vậy, pháp luật hợp đồng Anh cũng có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng. Theo đó, dựa trên học thuyết được lợi bất công, pháp luật hợp đồng Anh sử dụng chế định hoàn trả tài sản nhằm buộc bên được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả những gì đã nhận được của đối tác.
- 6 Bên cạnh đó, dựa trên học thuyết về thể hiện sai gây nhầm lẫn, pháp luật hợp đồng Anh còn áp đặt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với bên có hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng không được ký kết nếu bên này cố ý hoặc vô ý thể hiện sai gây nhầm lẫn. Nghĩa là một bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu cố ý hoặc vô ý thực hiện những hành vi thể hiện không đúng với thực tế khiến bên kia bị thiệt hại do đã tin tưởng vào sự thể hiện đó. 2.2.3. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng không được ký kết trong pháp luật hợp đồng Việt Nam Tương tự pháp luật hợp đồng Đức, pháp luật hợp đồng Việt Nam ghi nhận nguyên tắc thiện chí chung trong cả giai đoạn tiền hợp đồng hay ghi nhận nghĩa vụ hành xử thiện chí của các bên khi tham gia đàm phán tiền hợp đồng. Mặc dù cũng ghi nhận nguyên tắc thiện chí chung nhưng phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc thiện chí trong giai đoạn tiền hợp đồng theo pháp luật Việt Nam có phần hạn chế hơn so với pháp luật hợp đồng Đức. Đó là pháp luật hợp đồng Đức không chỉ có quy định điều chỉnh trực tiếp hành vi không thiện chí khi các bên đi đến đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà còn có quy định điều chỉnh hành vi không thiện chí ngay khi các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng, trong khi đó, pháp luật hợp đồng Việt Nam chỉ có quy định điều chỉnh trực tiếp hành vi không thiện chí liên quan đến đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Hệ quả là pháp luật hợp đồng Việt Nam chưa bảo vệ đầy đủ quyền và lợi ích của bên bị thiệt hại do hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng không được ký kết nếu thiệt hại xảy ra không thuộc một trong hai trường hợp: (1) bên đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt đàm phán trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời do đã tiến hành giao kết hợp đồng với người thứ ba và (2) vi phạm nghĩa thông tin. 2.3. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng vô hiệu 2.3.1. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng vô hiệu trong pháp luật hợp đồng Đức Theo pháp luật hợp đồng Đức, hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng vô hiệu có thể là hành vi cố ý như lừa dối, cưỡng ép nhưng cũng có thể là hành vi bất cẩn thể hiện sai gây nhầm lẫn. Hành vi lừa dối trong giai đoạn tiền hợp đồng là hành vi của một bên mặc dù nhận thức được sự sai lệch của thông tin hoặc không chắc chắn về tính chân thực của thông tin nhưng vẫn đưa ra thông tin đó nhằm tạo ra hoặc duy trì sự nhầm lẫn của đối tác khiến đối tác quyết định giao kết hợp đồng dựa trên thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ. Bên bị lừa dối có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do người thứ ba thực hiện nếu hành vi lừa dối của người thứ ba là vì lợi ích của một bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng và hành vi này đã tác động đáng kể đến quyết định ký kết hợp đồng của bên bị lừa dối cho dù đối tác của bên bị lừa dối có biết về hành vi lừa dối do người thứ ba thực hiện hay không. Bộ luật dân sự Đức mặc dù có quy định cụ thể điều chỉnh hành vi lừa dối được thực hiện trong đàm phán tiền hợp đồng nhưng lại thiếu vắng quy định cụ thể để điều chỉnh hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn được thực hiện trong giai đoạn này mà không phải là hành vi lừa dối. Xuất phát từ thực trạng đó, TATC liên bang Đức dựa trên nguyên tắc thiện chí và nguyên tắc culpa in contrahendo đã xây dựng cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị thiệt hại do đã tin tưởng hợp lý vào hành vi thể hiện sai do bên kia bất cẩn thực hiện trong đàm phán tiền hợp đồng. Theo pháp luật hợp đồng Đức, cưỡng ép là hành vi gây áp lực của một bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng nhằm tác động lên ý chí của đối tác khiến đối tác đưa ra quyết định giao kết hợp đồng trái với mong muốn. Trên cơ sở Điều 123 BLDS Đức và thực tiễn xét xử, khoa học pháp lý Đức khái quát các hành vi cưỡng ép dẫn tới hợp đồng vô hiệu gồm: (1) bản chất của hành vi cưỡng ép là bất hợp pháp, (2) bản chất của hành vi cưỡng ép là hợp pháp nhưng kết quả (hợp đồng) là trái pháp luật,
- 7 hoặc (3) không có mối liên hệ chặt chẽ giữa hành vi cưỡng ép và kết quả đạt được. Xuất phát từ quan điểm ý chí của bên bị cưỡng ép bị tác động mạnh hơn so với ý chí của bên bị lừa dối, pháp luật hợp đồng Đức trao cho bên bị cưỡng ép quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu đối với các hợp đồng được xác lập do chịu tác động của người thứ ba ngay cả trong trường hợp bên kia không biết và cũng không buộc phải biết về hành vi cưỡng ép mà người thứ ba thực hiện. 2.3.2. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng vô hiệu trong pháp luật hợp đồng Anh Bên cạnh việc sử dụng học thuyết về thể hiện sai gây nhầm lẫn để điều chỉnh các hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn được thực hiện trong đàm phán tiền hợp đồng dẫn tới hợp đồng không được giao kết, pháp luật hợp đồng Anh còn sử dụng học thuyết này để điều chỉnh hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn được thực hiện trong đàm phán tiền hợp đồng dẫn tới hợp đồng vô hiệu. Pháp luật hợp đồng Anh trước đây không thừa nhận nghĩa vụ cung cấp thông tin trong đàm phán tiền hợp đồng dựa trên học thuyết caveat emptor và do đó không xem việc im lặng không cung cấp thông tin là hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, theo thời gian pháp luật hợp đồng Anh đã thừa nhận các ngoại lệ của caveat emptor, theo đó, các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin cho đối tác trong một số trường hợp nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tác. Trong những trường hợp này, nếu một bên im lặng không cung cấp thông tin cần thiết cho đối tác thì hành vi không cung cấp thông tin đồng nghĩa với hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn và phải chịu trách nhiệm pháp lý. Mặc dù hành vi thể hiện quan điểm cá nhân về nguyên tắc không bị xem là hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn nhưng nếu bên thể hiện quan điểm cá nhân là người có vị trí, trình độ hoặc kỹ năng khiến đối tác tin tưởng một cách hợp lý vào hành vi thể hiện sai do bất cẩn dẫn quyết định giao kết hợp đồng trái với mong muốn thì hành vi thể hiện quan điểm cá nhân một cách bất cẩn bị xem là hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn do bất cẩn và do đó phải chịu trách nhiệm pháp lý. Mặc dù không thừa nhận cũng như không sử dụng nguyên tắc thiện chí chung để điều chỉnh hợp đồng được giao kết dưới tác động của áp lực không chính đáng trong đàm phán tiền hợp đồng nhưng pháp luật hợp đồng Anh cũng đạt được kết quả tương tự như pháp luật hợp đồng Đức thông qua việc sử dụng học thuyết về cưỡng ép (the doctrine of duress) và học thuyết về ảnh hưởng không chính đáng (the doctrine of undue influence) - những học thuyết được xem là giải pháp thay thế cho nguyên tắc thiện chí chung. Trong đó học thuyết về ảnh hưởng không chính đáng đóng vai trò bổ sung cho học thuyết về cưỡng ép nhằm giảm bớt sự cứng nhắc của học thuyết về cưỡng ép và bảo đảm sự công bằng giữa các bên tham gia đàm phán tiền hợp đồng. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị cưỡng ép, pháp luật hợp đồng Anh sử dụng học thuyết về được lợi bất công để khắc phục hệ quả của hành vi cưỡng ép, theo đó, buộc bên cưỡng ép phải hoàn trả cho bên bị cưỡng ép những lợi ích đã nhận được. Có thể thấy học thuyết về ảnh hưởng không chính đáng đã phản ánh một phần nội dung của nguyên tắc thiện chí thông qua việc giả định sự tồn tại của ảnh hưởng không chính đáng trong các quan hệ tin tưởng (quan hệ mang tính đạo đức), theo đó đòi hỏi bên có lợi thế phải quan tâm đến lợi ích hợp pháp của bên có vị thế bất lợi hơn và mọi hành xử của bên có lợi thế đi ngược lại với sự quan tâm cần có đối với lợi ích hợp pháp của bên có vị thế bất lợi đều bị xem là hành xử gây ảnh hưởng không chính đáng hay nói cách khác là hành xử không thiện chí. 2.3.3. Hành vi không thiện chí dẫn tới hợp đồng vô hiệu trong pháp luật hợp đồng Việt Nam Pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng như pháp luật hợp đồng Đức và pháp luật hợp đồng Anh đều có cơ chế điều chỉnh hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn được thực hiện trong đàm phán tiền hợp
- 8 đồng nhằm loại bỏ những bất công mà hành vi này có thể gây ra. Tương tự như pháp luật hợp đồng hai quốc gia nói trên, pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng dựa trên nhận thức của bên thực hiện hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn trong đàm phán tiền hợp đồng để phân biệt hai loại hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn là lừa dối (cố ý thể hiện sai gây nhầm lẫn) và thể hiện sai gây nhầm lẫn do bất cẩn. Tuy nhiên pháp luật hợp đồng Việt Nam bảo vệ bên bị lừa dối mạnh hơn so với pháp luật hợp đồng Đức trước những hành vi không thiện chí được thực hiện bằng các thủ đoạn gian dối nhằm dẫn dắt bên bị lừa dối giao kết hợp đồng trái với ý chí. Bên cạnh đó, BLDS 2015 có quy định điều chỉnh trực tiếp hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn do bất cẩn trong khi BLDS Đức thiếu vắng quy định điều chỉnh trực tiếp vấn đề này. Mặc dù BLDS Đức và BLDS 2015 đều trao cho bên giao kết hợp đồng do tác động của hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn quyền lựa chọn giữa việc thừa nhận hiệu lực của hợp đồng đã ký kết và yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng BLDS 2015 ghi nhận nguyên tắc thiện chí ở mức độ rộng, cho phép bảo vệ cân bằng lợi ích của các bên cũng như bảo vệ được lợi ích kinh tế chung của xã hội là không chỉ thừa nhận nguyên tắc thiện chí trong việc trao quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của bên đã giao kết hợp đồng do chịu ảnh hưởng của hành vi thể hiện sai gây nhầm lẫn do bất cẩn mà còn được thể hiện qua việc hạn chế quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của bên này. Tương tự pháp luật hợp đồng Đức và Anh, pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng không thừa nhận giá trị ràng buộc của những hợp đồng được giao kết do tác động của hành vi gây áp lực bất hợp pháp (đe dọa, cưỡng ép). Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng Việt Nam dường như chưa điều chỉnh hành vi gây áp lực có bản chất hợp pháp nhưng được sử dụng để đạt được mục đích không chính đáng. 2.4. Kiến nghị Chương 2 Thứ nhất, xây dựng tiểu mục “Đàm phán tiền hợp đồng”. Để các quy định điều chỉnh hành xử của các chủ thể tham gia đàm phán tiền hợp đồng của pháp luật hợp đồng Việt Nam tương thích hơn với pháp luật hợp đồng của các hệ thống pháp luật hiện đại, BLDS Việt Nam cần bổ sung thêm tiểu mục về “Đàm phán tiền hợp đồng” trước Tiểu mục về “Giao kết hợp đồng” tại Mục 7 Chương XV Phần thứ ba của BLDS 2015. Thứ hai, xây dựng quy định chung về nghĩa vụ thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng. Trong Tiểu mục về “Đàm phán tiền hợp đồng” cần bổ sung quy định về nghĩa vụ thiện chí trong đàm phán tiền hợp đồng với những nội dung sau: Điều : Nghĩa vụ đàm phán thiện chí (1) Cá nhân, pháp nhân có quyền tự do đàm phán tiền hợp đồng nhưng phải tuân thủ nguyên tắc thiện chí. (2) Bên vi phạm nghĩa vụ thiện chí phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên kia. Thiệt hại được bồi thường không bao gồm lợi ích lẽ ra bên bị thiệt hại được hưởng nếu hợp đồng được giao kết. Thứ ba, sửa đổi quy định “thông tin trong giao kết hợp đồng”. Cần đưa quy định “thông tin trong giao kết hợp đồng” vào tiểu mục “Đàm phán tiền hợp đồng” và đổi tên thành “Thông tin trong đàm phán tiền hợp đồng” với nội dung được chỉnh sửa như sau: “Điều Thông tin trong đàm phán tiền hợp đồng: (1) Bên có thông tin ảnh hưởng đến quyết định giao kết hợp đồng của bên kia phải thông báo cho bên kia biết thông tin đó nếu bên kia không có khả năng tiếp cận thông tin hoặc đã đặt niềm tin hợp lý vào bên có thông tin. (2)