Luận án Opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam

pdf 158 trang Minh Thư 06/10/2025 380
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận án Opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_an_opera_trong_su_phat_trien_nen_am_nhac_chuyen_nghiep.pdf

Nội dung tài liệu: Luận án Opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Hơn bốn thế kỷ qua, nghệ thuật opera ra đời và chiếm lĩnh đƣợc hàng triệu trái tim, khối óc của con ngƣời. Bằng sự kết hợp tài tình giữa âm nhạc với sân khấu, với thơ ca và hội họa trang trí...; bằng những thủ pháp âm nhạc phong phú, đa dạng, opera đã trở thành nghệ thuật độc đáo với khả năng diệu kỳ mà ít có thể loại âm nhạc nào sánh kịp trong việc thể hiện cuộc sống hiện thực và miêu tả tình cảm của con ngƣời. Sức mạnh lớn lao của nghệ thuật opera tác động trực tiếp tới khán giả và hấp dẫn sự chú ý của các nhạc sĩ trên thế giới. Tên tuổi của nhiều nhạc sĩ trở nên nổi tiếng bởi họ đã cống hiến sự nghiệp của mình cho opera nhƣ C. Monteverdi, A. Scarlatti, C.W. Gluck, C. Weber, G. Verdi, G. Rossini, G. Bizet, R. Wagner, G. Puccini... Nhiều nhạc sĩ mà sự nghiệp của họ chói lọi trong các lĩnh vực nhạc giao hƣởng, nhạc thính phòng nhƣng cũng có nhiều công lao với opera, có những tác phẩm opera sống mãi trong lịch sử âm nhạc thế giới nhƣ W.A. Mozart, L.V. Beethoven, M. Glinka, P.I. Tchaicovsky, S. Prokofiev... Opera hấp dẫn các nhạc sĩ không chỉ bởi thế mạnh trong việc thể hiện cuộc sống hiện thực mà còn vì phẩm chất nghệ thuật. Chỉ riêng về mặt âm nhạc, opera đòi hỏi ở ngƣời nhạc sĩ năng lực sáng tác toàn diện cả thanh nhạc và khí nhạc. Các thủ pháp nghệ thuật cũng nhƣ kỹ thuật thanh nhạc đạt đến đỉnh cao trong opera. Khí nhạc trong opera cũng không kém gì nghệ thuật giao hƣởng. Chính vì vậy, ở các quốc gia châu Âu và một số quốc gia ở các châu lục khác nhƣ Mỹ, Úc, Trung Quốc, Nhật Bản... có nền âm nhạc phát triển cao thì cùng với âm nhạc giao hƣởng, opera là một trong những môn nghệ thuật đƣợc chú trọng. Nền âm nhạc mới Việt Nam kể từ ngày đầu hình thành đến nay đƣợc trên 70 năm. So với thế giới và so với âm nhạc truyền thống của ta thì đó là một nền âm nhạc còn rất non trẻ, nhƣng nhạc mới Việt Nam đã có những đóng góp thực sự to lớn cho sự phát triển văn hóa Việt Nam nói chung và âm nhạc Việt Nam nói riêng. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng với chính sách “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, âm nhạc mới Việt Nam từ chỗ chủ yếu chỉ sáng tác và biểu diễn ca khúc đã tiến
  2. 2 những bƣớc nhanh chóng đến xây dựng một cơ ngơi với đầy đủ các thể loại giao hƣởng, nhạc thính phòng, nhạc sân khấu... Đến nay, đã có không ít những tác phẩm âm nhạc sân khấu mới nhƣ ca kịch, nhạc kịch (opera), vũ kịch (ballet)... với nội dung đề tài đa dạng, các hình thức thủ pháp vừa tiếp thu âm nhạc Âu Tây vừa thể hiện đƣợc bản sắc dân tộc Việt Nam. Các tác phẩm âm nhạc sân khấu không chỉ nói lên sự phong phú của nền âm nhạc nƣớc nhà mà còn nói lên sự phát triển cao trong tƣ duy và bút pháp sáng tác của các nhạc sĩ Việt Nam. Với tính cách là một thể loại âm nhạc chuyên nghiệp đòi hỏi trình độ cao của các nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng thƣởng thức, opera không xuất hiện ngay trong nền nhạc mới Việt Nam nhƣ ca khúc và một số thể loại âm nhạc thính phòng khác. Sự ra đời của opera Việt Nam đã trải qua một quá trình khá dài. Từ những bƣớc đi ban đầu trong sáng tác các tác phẩm ca cảnh, ca kịch ở thời kỳ 1945 - 1954, các nhạc sĩ Việt Nam dần dần trƣởng thành trong sáng tác âm nhạc cho sân khấu, đến khi những điều kiện cần và đủ cả về khách quan và chủ quan chín muồi ở thời kỳ 1954 - 1975 thì thể loại opera mới chính thức đƣợc ra đời. Cùng với nhạc giao hƣởng, thính phòng, nhạc sân khấu... opera đã góp phần cho sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam. Hiện nay, đất nƣớc ta đang trong thời kỳ đổi mới, sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ bao cấp sang kinh tế thị trƣờng đã dẫn tới sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, các thể loại âm nhạc sân khấu nhƣ opera, ballet... đang đứng trƣớc những thử thách mới. Làm sao để có một nền âm nhạc vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa có tầm cỡ quốc tế sánh vai với các nền âm nhạc khác trên thế giới? Cần phải có sự đổi mới về quan điểm cho hƣớng phát triển các thể loại nêu trên. Chính vì vậy, việc xem xét, đánh giá các tác phẩm opera Việt Nam, những đóng góp của opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam, tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu, những nguyên nhân thăng trầm của nghệ thuật này là một việc làm rất đáng đƣợc quan tâm, để từ đó có những giải pháp nhằm góp phần cho sự phát triển nghệ thuật opera ở Việt Nam.
  3. 3 Xuất phát từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam”. 2. Lịch sử đề tài. Opera ở châu Âu có lịch sử phát triển trên 400 năm. Đã có nhiều công trình của nhiều tác giả nƣớc ngoài nghiên cứu về opera, chúng ta có thể tham khảo qua The Victor book of opera của Louis Biancoll và Robert Bagar (NXB New York, năm 1949); French opera - ít’s development to the revolution của Norman Demuth (NXB The Antemis, năm 1963); The Russian opera của Rosa Newmarch (NXB The Anchor London).v.v. Các công trình trên nghiên cứu riêng về opera thế giới, opera Pháp, Nga... Tuy nhiên, tất cả đều chƣa đƣợc dịnh ra tiếng Việt. Trong cuốn Các thể loại âm nhạc do Lan Hƣơng dịch (NXB Văn hóa - Hà Nội) có một chƣơng viết khá sâu về thể loại opera của E. Tchecnaia. Các giáo trình Lịch sử âm nhạc của học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đều có nội dung về thể loại opera của châu Âu từ khi xuất hiện đến thế kỷ XX. Trong đó, opera đƣợc xem xét là lĩnh vực sáng tác của từng nhạc sĩ rồi đƣa ra các nhận định về ngôn ngữ và phong cách mà không đi thành mảng xuyên suốt riêng. Gần đây, PGS.NSND Trung Kiên đã viết cuốn Nghệ thuật opera (Viện Âm nhạc xuất bản, năm 2004). Trong cuốn sách này, opera thế giới đƣợc nghiên cứu khá chi tiết theo tuyến thể loại và giới thiệu các tác giả nổi tiếng ở các thời kỳ tiêu biểu. Việc tìm hiểu các thủ pháp sáng tác của các tác phẩm opera Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu thông qua các luận văn chuyên ngành Lý luận âm nhạc nhƣ: luận văn tốt nghiệp Trung cấp của Trần Đinh Lăng Bước đầu tìm hiểu thể loại opera qua tác phẩm “Cô Sao” của Đỗ Nhuận; luận văn tốt nghiệp Đại học tại chức của Đoàn Thu Hà Tìm hiểu aria và các bài hát đơn ca trong vở nhạc kịch “Cô Sao” của Đỗ Nhuận...; trong luận văn Thạc sĩ Một số đặc điểm ngôn ngữ âm nhạc trong sáng tác thanh nhạc của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, tác giả Trịnh Tuyết Mai có đề cập đến một số tiết mục aria của opera Cô Sao; trong luận văn tốt nghiệp Đại học của Trần Thu Anh Tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn có một chƣơng nghiên cứu một số nét về vở opera “Tình yêu của em”.
  4. 4 Các luận văn nêu trên chỉ tìm hiểu opera Việt Nam ở một số khía cạnh về ngôn ngữ âm nhạc. Riêng đề tài của tác giả Trần Thu Anh có đề cập đến opera “Tình yêu của em”, các đề tài khác tập trung chủ yếu vào một số aria của vở opera “Cô Sao” và nhìn chung, không đi vào nghiên cứu tổng thể có tính hệ thống về thể loại opera. Năm 2000, Viện Âm nhạc đã xuất bản cuốn sách Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu của các tác giả Tú Ngọc, Nguyễn Thị Nhung, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Thái Phiên. Trong cuốn sách này, cùng với các thể loại nhạc mới khác, thể loại opera Việt Nam đã đƣợc giới thiệu một số nét về sự hình thành, điểm các tác phẩm, tác giả và nêu sơ lƣợc đặc điểm âm nhạc của một số tác phẩm tiêu biểu. 3. Mục đích nghiên cứu. Bản luận án thuộc lĩnh vực nghiên cứu cơ bản một hiện tƣợng trong đời sống âm nhạc Việt Nam, đó là thể loại opera. Opera Việt Nam đƣợc nghiên cứu ở các góc độ lịch sử, đặc điểm âm nhạc, mối quan hệ với các thể loại khác nhƣ giao hƣởng, hợp xƣớng... Qua đó để xem xét, đánh giá và khẳng định vị trí của opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam, đồng thời tìm ra những nguyên nhân, tồn tại cần giải quyết để góp phần cho triển vọng phát triển opera trong tƣơng lai. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. Đối tƣợng của luận án là nghiên cứu về sự phát triển của thể loại opera Việt Nam trong sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam. Luận án nghiên cứu opera Việt Nam trong mối quan hệ với opera thế giới, về lịch sử ra đời, một số đặc điểm âm nhạc và những đóng góp của opera cho nền âm nhạc Việt Nam. Việc phân tích đặc điểm âm nhạc của các tác phẩm opera Việt Nam chỉ là một phần của luận án để chứng minh cho sự phát triển của opera Việt Nam. Do khuôn khổ độ dài luận án và do các opera Việt Nam hiện không có tƣ liệu vang nên ở phần nghiên cứu đặc điểm âm nhạc, luận án chỉ đi vào phƣơng thức xây dựng các khúc mở màn và các tiết mục thanh nhạc. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
  5. 5 Nghiên cứu khái niệm về thể loại opera, sơ lƣợc lịch sử opera ở châu Âu làm cơ sở lý luận cho đề tài và quá trình hình thành nghệ thuật opera của Việt Nam. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu phƣơng thức xây dựng khúc mở màn và các tiết mục thanh nhạc để thấy sự học tập opera châu Âu và xu hƣớng dân tộc hóa trong các tác phẩm opera Việt Nam. Làm rõ những đóng góp của opera trong nền âm nhạc Việt Nam và đề xuất giải pháp cho sự phát triển opera Việt Nam trong tƣơng lai. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu và cách tiếp cận đối tƣợng. Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết: - Nghiên cứu tƣ liệu, thực hiện các phán đoán suy luận trên cơ sở tƣ liệu thu thập đƣợc. - Sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh. Chúng tôi sử dụng các tài liệu trong các công trình khoa học về lý thuyết âm nhạc cổ điển chấu Âu và lý thuyết âm nhạc cổ truyền Việt Nam đã đƣợc công bố. Cách tiếp cận đối tƣợng chủ yếu trên bản phổ và tổng phổ. 7. Ý nghĩa khoa học của đề tài. Nếu kết quả của đề tài đƣợc công nhận, đề tài sẽ góp phần nêu lên những nhận xét tổng quát về nghệ thuật opera Việt Nam, ý nghĩa của thể loại này trong đời sống âm nhạc Việt Nam thời kỳ đất nƣớc đổi mới. Sự nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển opera Việt Nam sẽ đóng góp một phần nhỏ cho các công trình nghiên cứu về lịch sử âm nhạc Việt Nam nói chung và âm nhạc mới Việt Nam nói riêng. 8. Bố cục của luận án. Phần Mở đầu Chƣơng 1: Lược sử opera châu Âu và quá trình hình thành opera Việt Nam. Chƣơng 2: Phương thức xây dựng khúc mở màn và các tiết mục thanh nhạc trong opera Vỉệt Nam. Chƣơng 3: Đóng góp của opera trong nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam. Phần kết luận.
  6. 6 CHƢƠNG 1 LƢỢC SỬ OPERA CHÂU ÂU VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH OPERA VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về thể loại opera. Khi định nghĩa về nghệ thuật opera có khá nhiều ý kiến khác nhau. Một cách khái quát và ngắn gọn thì opera đƣợc hiểu là nhạc kịch. Trong Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc thường dùng của Đào Trọng Từ, Đỗ Mạnh Thƣờng, Đức Bằng có viết: “opera là ca kịch, nhạc kịch” [45 : 38]. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học TW nêu định nghĩa nhạc kịch là opera [40 : 680]. Thuật ngữ “nhạc kịch” thƣờng đƣợc nhiều sách của nhiều tác giả mở ngoặc để chú giải thêm bên cạnh chữ opera hoặc ngƣợc lại. Thí dụ, trong cuốn Âm nhạc Việt Nam - Tiến trình và thành tựu có viết “Sự ra đời của thể loại nhạc kịch (opera) cũng nhƣ các thể loại giao hƣởng - thính phòng trong lĩnh vực nhạc đàn, trong giai đoạn 1954 - 1975 đánh dấu bƣớc phát triển mới của nền âm nhạc mới Việt Nam.” [34 : 473]. Các giáo trình Lịch sử âm nhạc của Nhạc viện Hà Nội, một số trƣờng đào tạo âm nhạc khác và nhiều sách chuyên ngành về âm nhạc đều dịch nghĩa của chữ opera là nhạc kịch. Cũng trong Âm nhạc Việt Nam - Tiến trình và thành tựu có viết: “nhạc kịch (đƣợc dịch từ chữ opera) là loại vở diễn âm nhạc trong nền âm nhạc cổ điển - bác học châu Âu”. [34 : 461] Khái niệm opera là nhạc kịch tuy ngắn gọn nhƣng cũng cho thấy đây là một loại hình nghệ thuật bao gồm cả âm nhạc và sân khấu. Tuy nhiên, khái niệm nhạc kịch chƣa nói lên đầy đủ bản chất của nghệ thuật opera. Chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu định nghĩa của opera. Trong cuốn Nghệ thuật opera của PGS. Nguyễn Trung Kiên đã đƣa ra khá nhiều cách định nghĩa về opera của nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc thế giới nhƣ:
  7. 7 Ý kiến của Arensky: “Opera là kết quả của sự phối hợp các hình thức thanh nhạc với hành động sân khấu” [17: 6] Ý kiến của I.Vainkôp: “Opera là tác phẩm nhạc kịch (đôi khi đƣa vào cả các màn múa ballet), dùng cho sân khấu biểu diển, lời của vở hoàn toàn hoặc một phần đƣợc thực hiện bằng nghệ thuật hát, thƣờng với phần đệm của dàn nhạc” [17: 8]. Ý kiến của nghệ sĩ opera Nga F. I. Saliapin: “Tôi yêu nhất opera, tôi quý trọng nó là vì opera phối hợp các hình thức nghệ thuật với nhau một cách hài hòa, nhịp nhàng nhƣ: âm nhạc, thơ ca, hội họa, điêu khắc, kiến trúc ” [17: 6]. Trong sách The Development of Western music, a history - Sự phát triển của lịch sử âm nhạc phương Tây có đoạn viết về opera: “Opera is drama presented musically, with all or most of the text being sung and with appropriate instrumental music, as required by the plot or for accompaniment. It is a combined - art form, an amalgamation of various aspects of art (scenery, costumes), literature (poetic or prose lines of plot), theatre (acting and dance), with vocal and instrumantal music”. [4 : 249]. Có thể dịch nghĩa nhƣ sau: Opera là kịch đƣợc biểu hiện bằng âm nhạc, với tất cả hoặc hầu hết là hát và có sự tham gia của khí nhạc. Đó là nghệ thuật tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật nhƣ hội họa (trang trí, trang phục), văn học (thơ ca hoặc văn xuôi), sân khấu (diễn xuất và nhảy múa), với phần hát và khí nhạc. Trong cuốn Giảng nhạc, PGS.TS Nguyễn Thị Nhung cũng đƣa khái niệm về opera: “Trong opera là sự kết hợp của âm nhạc (thanh nhạc và khí nhạc) với thơ ca và hành động kịch, nghệ thuật thể hiện bằng điệu bộ, nét mặt và nghệ thuật múa, hội họa, kiến trúc dƣới hình thức trình bày trang trí và hiệu quả của ánh sáng. Tất cả đƣợc kết hợp với nhau dƣới vai trò dẫn dắt chủ đạo của âm nhạc.” [36 : 47] Nhƣ vậy, dù ngắn gọn hay chi tiết, tất cả các khái niệm về opera đều thống nhất với nhau ở một điểm: opera là tác phẩm nghệ thuật tổng hợp. Trong opera có sự kết hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau: Âm nhạc: bao gồm cả thanh nhạc và khí nhạc Sân khấu: kịch bản, diễn xuất, hóa trang và ánh sáng. Văn chƣơng: thơ ca hoặc văn xuôi
  8. 8 Múa Hội họa trang trí Các loại hình nghệ thuật kể trên hỗ trợ và gắn bó với nhau một cách khăng khít để tạo thành một chỉnh thể thống nhất là opera. Tuy nhiên, trong opera có hai loại hình nghệ thuật giữ vai trò chủ yếu là âm nhạc và sân khấu. Thậm chí, có khá nhiều ý kiến cho rằng âm nhạc giữ vai trò chính. Trong giáo trình Lịch sử âm nhạc thế giới tập I của Nhạc viện Hà Nội do Nguyễn Xinh biên soạn có đoạn viết: “Nhạc kịch - một thể loại tổng hợp của nhạc, thơ và sân khấu kịch (dĩ nhiên trong đó âm nhạc đóng vai trò thống soái) ” [51: 78]. Đặc biệt, vai trò của thanh nhạc có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghệ thuật này, “xƣa kia cũng nhƣ ngày nay, giọng hát của con ngƣời với các màu sắc phong phú, âm điệu chân tình, tính chất mềm mại, uyển chuyển không gì sánh đƣợc luôn là linh hồn của opera” [5: 277]. Thanh nhạc trong opera có nhiều hình thức trình diễn phong phú nhƣ đơn ca, hợp ca, hợp xƣớng, hát nói. Đơn ca có nhiều thể loại nhƣ aria, ariozo, romance, ballade, ca khúc... Hợp ca có các hình thức nhƣ duo (song ca), trio (tam ca), quartuor (tứ ca)... Khí nhạc trong opera cũng nhiều hình thức thể hiện nhƣ ouverture (khúc mở màn), nhạc chuyển màn, nhạc đệm, nhạc nền, nhạc chen... 1.2. Lƣợc sử phát triển opera châu Âu: Kể từ khi vở opera đầu tiên của châu Âu ra đời cho đến nay đã hơn 400 năm, một chặng đƣờng lịch sử khá dài. Với khoảng thời gian đó, opera châu Âu đã phát triển và đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn với nhiều thể loại, nhiều trƣờng phái phong cách, ghi danh biết bao tên tuổi của các nhạc sĩ vĩ đại mà sự nghiệp của họ đã làm chói lọi cho những trang sử của opera. 1.2.1. Opera thời kỳ tiền cổ điển: Opera Ý. Thời kỳ tiền cổ điển dánh dấu sự ra đời của opera với công lao của ngƣời Ý. Opera Ý đã phát triển khá rực rỡ, có nhiều trƣờng phái opera nổi bật nhƣ Florence Mantoue, Rome, Venice và Naples.
  9. 9 Vở opera đầu tiên ra đời ở thành phố Florence, đó là “Dafné”, đƣợc sáng tác năm 1594 - 1598 của nhạc sĩ - ca sĩ Peri (1560 - 1633), kịch bản của nhà thơ Ottovio Rinuccini. Tuy nhiên, tổng phổ của “Dafné” không còn lƣu giữ đƣợc. Năm 1600, opera “Euridice” cũng của Peri và Rinuccini đã ra mắt khán giả và tổng phổ đƣợc in, trở thành tài sản không bị lãng quên. “Euridice” đã thực sự đánh dấu cho sự ra đời opera và Florence trở thành cái nôi của nghệ thuật này ở Ý. Tiếp sau Florence, các trƣờng phái opera của Ý nhƣ Mantoue, Rome, Venice và Naples đã đua nhau nở rộ vào thế kỷ XVII và đầu XVIII. Gắn liền với sự phát triển của opera Ý thời kỳ này là tên tuổi của nhiều nhạc sĩ nhƣ Galiano của Mantoue, Landi của Rome, C. Monteverdi của Venice, A. Scarlatti và G.B. Pergolesi của Naples Đặc biệt, lịch sử opera Ý đƣợc rạng danh bởi sự nghiệp sáng tác của C. Monteverdi và A. Scarlatti. Các nhạc sĩ Naples đã tạo ra những chuẩn mực cho thể loại opera seria (opera nghiêm trang). Alessandro Scarlatti (1658 - 1725) là nhạc sĩ đứng đầu trƣờng phái Naples đã xây dựng opera theo lối hát bel canto (hát đẹp) với những kỹ thuật thanh nhạc tinh xảo. Với lối cấu trúc số, ít sử dụng hợp xƣớng và ballet, lối hát bel canto đòi hỏi kỹ thuật thanh nhạc cao, opera seria đã dẫn tới sự phát triển chƣa từng có từ trƣớc đến thời bấy giờ của nghệ thuật thanh nhạc. Giới quý tộc lúc đó rất ƣa chuộng opera seria, thậm chí còn coi nhƣ là thể loại riêng của họ. Sau này, do chiều theo thị hiếu của giới quý tộc mà đầu thế kỷ XVIII, opera seria đã đi vào chỗ bế tắc dẫn đến khủng hoảng. Đầu thế kỷ XVIII, khi mà opera seria của Ý đạt đến đỉnh cao của thời tiền cổ điển và có xu hƣớng rơi vào khủng hoảng thì cũng là lúc opera buffa (còn gọi là opera hài) ra đời. Tác phẩm đƣợc coi là đặt nền móng cho opera buffa là “Con sen thành bà chủ” hay còn gọi là “Người hầu thành quý bà” (năm 1733) của nhạc sĩ ngƣời Ý thuộc trƣờng phái Napoli, Giovanni Battista Pergolesi (1710 - 1736). Opera Pháp. Các nhạc sĩ Ý đã làm rạng danh cho lịch sử opera. Nhạc kịch của họ có ảnh hƣởng rộng rãi tới nhiều nƣớc châu Âu, trong đó có nƣớc Pháp.
  10. 10 Ngƣời tiên phong viết opera của Pháp là nhạc sĩ Cambert với vở “Thôn dã” hay còn gọi là “Khúc đồng quê” (1659), phần kịch bản của nhà thơ Perrin. Ngƣời có công xây dựng nền opera Pháp là Jean Baptiste Lully (1632 -1687). Lully đã tiếp thu opera Ý ở mặt hình thức, bố cục nhƣng ông đã sáng tạo chất liệu, thủ pháp và nội dung biểu hiện phù hợp với tâm hồn của dân tộc Pháp, làm cho opera Pháp mang đặc điểm dân tộc và một điểm đáng chú ý là ông đã đƣa nhiều múa vào opera. Vào giữa thế kỷ XVIII, opera comique (opera hài) của Pháp đã ra đời với sự đánh dấu là tác phẩm “Thày bói làng quê” (1752) của nhà triết học J.J. Rousseau (1712 - 1788). Opera comique của Pháp từ đó phát triển và sau này gắn liền với khá nhiều tên tuổi của các nhạc sĩ E. Duni, F. D. Philidor, A. Gretry Opera Anh, Đức. Nƣớc Anh thời đó không có một nền opera rực rỡ nhƣ Ý và cũng không có đƣợc những trang sử đáng tự hào nhƣ opera Pháp. Sự phát triển opera của họ có thể nói là khiêm tốn, song cũng phải kể đến nhạc sĩ H. Purcell sáng tác opera “Didon và Enée” (1688). Một nhạc sĩ ngƣời Đức sang định cƣ tại Anh thời bấy giờ đã có công phục hồi cho nền âm nhạc Anh nói chung và nhạc kịch Anh nói riêng, đó là Georges Frideric Haendel (1685 - 1759). Haendel sáng tác hơn 40 vở opera. Lúc đó, opera seria châu Âu đã rơi vào khủng hoảng, cải cách opera seria là hoài bão của ông. Tuy nhiên, ông không thành công lắm và chƣa đạt đƣợc đích của sự cải cách này. Khác với nƣớc Anh chỉ có một opera duy nhất, ngƣời Đức đã xây dựng cho mình một trƣờng phái opera ở thành phố Hamburg với tên tuổi của một số nhạc sĩ nổi tiếng nhƣ: G.F. Telemann với 40 opera; S. Cusser, J. Mattheson và đặc biệt là nhạc sĩ Reinhard Keiser (1674 - 1739) là tác giả của 120 opera. Tóm lại, thời kỳ tiền cổ điển đã đánh dấu sự ra đời của opera với hai thể loại chủ yếu là opera trang nghiêm và opera hài hƣớc. Opera đã phát triển rực rỡ ở Ý, khá phong phú ở Pháp và lan sang nhiều nƣớc nhƣ Đức, Anh v.v Đầu thế kỷ XVIII, opera seria bắt đầu có sự suy thoái từ nƣớc Ý và cũng ảnh hƣởng sang các nƣớc khác ở châu Âu. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của opera thời kỳ tiền cổ điển là nền tảng cho sự phát triển của opera ở các thời kỳ sau.