Luận văn Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần Quân đội hiện nay
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần Quân đội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_van_phat_huy_vai_tro_nhan_to_chu_quan_cua_can_bo_hau_ca.pdf
Nội dung tài liệu: Luận văn Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần Quân đội hiện nay
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ Nguyễn V ăn Kiều Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần Quân đội hiện nay Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 80 Luận văn thạc sĩ triết học Người hướng dẫn khoa học: TS.Hà Nguyên Cát Hà Nội - 2005
- Các chữ viết tắt trong Luận văn Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Cán bộ, chiến sĩ CB, CS Cán bộ hậu cần CBHC Chình trị Quốc gia CTQG Công tác hậu cần CTHC Hoạt động hậu cần HĐHC Nhà xuất bản Nxb Nhân tố chủ quan NTCQ Phẩm chất chình trị PCCT Phẩm chất đạo đức PCĐĐ
- Mục lục Trang Mở đầu 3 Chương 1 Thực chất và đặc điểm phát huy vai trò Nhân tố chủ quan của Cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội 7 1.1. Thực chất phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội 7 1.2. Đặc điểm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội 27 Chương 2 Tình hình và giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố chủ quan của Cán bộ hậu cần quân đội nhân dân việt nam trong hoạt động hậu cần quân đội hiện nay 49 2.1. Thực trạng và yêu cầu phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội hiện nay 49 2.2. Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội hiện nay 72 Kết luận 95 Danh mục tài liệu tham khảo 97 Phụ lục 101
- 3 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động hậu cần là một mặt công tác quân sự góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh tổng hợp của Quân đội ta; là khâu nói liền giữa nền kinh tế đất nước với hoạt động của quân đội, bảo đảm các nhu cầu vật chất giúp cho quân đội có điều kiện hoàn thành các nhiệm vụ cả trong thời bính cũng như trong thời chiến. Cán bộ hậu cần quân đội là người trực tiếp tổ chức thực hiện CTHC trong quân đội. Hiệu quả HĐHC phụ thuộc trực tiếp vào vai trò NTCQ của đội ngũ CBHC. Chình việc phát huy không ngừng vai trò NTCQ của CBHC mà ngành hậu cần quân đội đã khắc phục được khó khăn, phục vụ có hiệu quả hoạt động xây dựng và chiến đấu của bộ đội; góp phần vào sự trưởng thành chiến thắng của Quân đội ta hơn 60 năm qua. Yêu cầu nhiệm vụ xây dựng chiến đấu của quân đội càng cao thí nhiệm vụ bảo đảm hậu cần càng đa dạng, phức tạp đòi hỏi nỗ lực ngày càng lớn của đội ngũ CBHC. Ngày nay, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chình quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp về kinh tế, chình trị, xã hội...; trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi cao vai trò NTCQ của CBHC, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong HĐHC đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của Quân đội ta trong giai đoạn mới. Đứng trước yêu cầu ấy, đa số CBHC quân đội đã tìch cực vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; có phẩm chất, năng lực công tác tốt. Tuy nhiên một số CBHC do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan chưa thực sự vừa “hồng” vừa “ chuyên”; còn những bất cập về phẩm chất và năng lực, ý thức trách nhiệm và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Một số CBHC thoái hoá, biến chất, lợi dụng chức quyền tham ô tài sản quân đội, vun vén lợi ìch cá nhân ảnh hưởng không tốt đến kết quả HĐHC và sức manh chiến đấu của quân đội. Đó là một thực tế bức xúc trong ngành hậu cần Quân đội ta hiện nay.
- 4 Chình ví vậy, vấn đề phát huy vai trò NTCQ của CBHC, làm cho CBHC đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ HĐHC quân đội là vấn đề khách quan cấp thiết. Vấn đề đặt ra cần làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn phát huy vai trò NTCQ của CBHC trong HĐHC quân đội; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm phát huy vai trò NTCQ của CBHC quân đội, góp phần tìch cực vào xây dựng ngành hậu cần quân đội nói riêng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Nhân tố chủ quan là phạm trù triết học đã được các nhà triết học mácxìt đề cập và giải quyết một cách khoa học khi bàn về biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan. Dựa trên cơ sở đó, nhiều công trính khoa học trong và ngoài nước đã nghiên cứu và vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa. ở Việt Nam tiêu biểu là các đề tài KX-07 “Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực phát triển kinh tế – xã hội”, Giáo sư Phạm Minh Hạc (chủ nhiệm), Nxb KHXH, Hà Nội. 1994; Đề tài KX07-13 “Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển kinh tế – xã hội”, Giáo sư Lê Hữu Tầng (chủ nhiệm), Nxb CTQG, Hà Nội 1996... Trong Quân đội ta, nhiều đề tài nghiên cứu về con người, về NTCQ trong hoạt động quân sự, như: Đề tài cấp Bộ Quốc phòng “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến nhận thức chình trị, tư tưởng của CB, CS quân đội và một số vấn đề đổi mới trong công tác tư tưởng, tổ chức của quân đội hiện nay”, Giáo sư Trần Xuân Trường (chủ nhiệm), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1996; Đề tài “Tìch cực hoá nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ khoa học quân sự của Nguyễn Văn Tài, Học viện Chình trị quân sự, Hà Nội 1998; Đề tài: “Phát huy NTCQ trong tự học của học viên đào tạo sĩ quan công binh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học của Đặng Quốc Cẩm, Học viện Chình trị quân sự, Hà Nội 2003; Đề tài “Nâng cao vai trò NTCQ trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Phi Cẩn, Học viện Chình trị quân sự, Hà Nội 1996
- 5 Trong lĩnh vực hậu cần quân đội có đề tài: “Phát huy nhân tố con người trong nhiệm vụ hậu cần quân đội” Luận văn thạc sĩ triết học của Lê Văn Chinh, Học viện Chình trị quốc gia Hồ Chì Minh, Hà Nội 1999; Đề tài: “Vấn đề đạo đức cách mạng của người CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học của Hà Nguyên Cát, Học viện Chình trị Quốc gia Hồ Chì Minh, Hà Nội 2000; Đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ chủ nhiệm hậu cần trung đoàn binh chủng hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Hồng Châu, Học viện Chình trị quân sự, Hà Nội 2003 Các công trính trên đã đề cập và giải quyết khá sâu sắc những vấn đề phát huy nhân tố con người, NTCQ trong các lĩnh vực khác nhau trong thực tiễn xây dựng đất nước, xây dựng quân đội và là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả nghiên cứu vấn đề “Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội hiện nay”. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Đề tài góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò NTCQ của CBHC quân đội hiện nay, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngành hậu cần trong tính hính mới. * Nhiệm vụ: + Bước đầu làm sáng tỏ thực chất vấn đề phát huy vai trò NTCQ của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam trong HĐHC Quân đội ta. + Đánh giá thực trạng, nêu lên yêu cầu mới và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò NTCQ của CBHC trong HĐHC Quân đội ta hiện nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận của luận văn là: Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chì Minh và Đảng ta về con người. Trong đó trực tiếp nhất là lý luận về biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan, lý luận về chiến tranh quân đội của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Hồ Chì Minh và của Đảng ta về hậu cần quân đội.
- 6 * Cơ sở thực tiễn của luận văn là: Tính hính thực tế phát huy vai trò NTCQ của CBHC ở các đơn vị; các báo cáo tổng kết về công tác cán bộ, tính hính phẩm chất, năng lực của đội ngũ CBHC của Tổng cục Hậu cần; số liệu điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về vấn đề phát huy vai trò NTCQ của CBHC ở một số cơ quan, đơn vị, nhà trường quân đội. * Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học là: Hệ thống và cấu trúc; lôgìc và lịch sử; phân tìch và tổng hợp; trừu tượng và cụ thể; khái quát hoá và điều tra xã hội học. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn phát huy vai trò NTCQ của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam trong HĐHC quân đội hiện nay. - Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong xây dựng đội ngũ CBHC và ngành hậu cần quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu của quân đội trong giai đoạn mới. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm: Mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 7 Chương 1 Thực chất và đặc điểm phát huy vai trò Nhân tố chủ quan của Cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội. 1.1. Thực chất phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu cần quân đội 1.1.1. Nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam và vai trò của nó trong hoạt động hậu cần quân đội * Hoạt động hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chì Minh sáng lập, tổ chức xây dựng và rèn luyện. Hơn 60 năm qua dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tính của Đảng và Chủ tịch Hồ Chì Minh, cùng với sự đùm bọc của nhân dân, Quân đội ta không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ Quân đội ta là một quân đội bách chiến bách thắng, làm nòng cốt cho toàn dân đánh thắng hai tên đế quốc là Pháp và Mỹ. Ngày nay, Quân đội ta vẫn xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cũng như mọi quân đội khác, khả năng thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam là sức mạnh chiến đấu của nó. Sức mạnh chiến đấu của QĐND Việt Nam, một mặt được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, bao gồm: Quân số, tổ chức biên chế; trạng thái tinh thần và kỷ luật, trính độ huấn luyện và thể lực bộ đội; bản lĩnh và tài nghệ của đội ngũ chỉ huy; khoa học và nghệ thuật quân sự Mặt khác sức mạnh chiến đấu của quân đội còn là sản phẩm tổng hợp của các mặt hoạt động, trước hết là các hoạt động cơ bản, như: Hoạt động công tác đảng, công tác chình trị; công tác tham mưu; công tác tác kỹ thuật; CTHC. Mỗi mặt hoạt động có tình độc lập tương đối, có vai trò vị trì khác nhau song chúng luôn tác động trong thể thống nhất biện chứng, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội.
- 8 Hậu cần là một mặt cơ bản của công tác quân sự, gồm tổng thể những hoạt động bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải cho lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ [40, tr.235]. Trong Quân đội nhân dân Việt Nam trước đây gọi là hoạt động “cung cấp”, từ đầu năm 1955 gọi là hậu cần. HĐHC là hoạt động của CB, CS trong quân đội mà nòng cốt là CB, CS hậu cần nhằm thực hiện các nhiệm vụ hậu cần đặt ra. Hoạt động hậu cần có những đặc điểm cơ bản sau: Một là, HĐHC là một mặt cơ bản của hoạt động quân sự, có sự thống nhất hữu cơ giữa tình chất quân sự, tình chất chình trị, tình chất kinh tế – tài chình, tình chất khoa học và kỹ thuật [2, tr.10]. Tình chình trị của HĐHC quân đội thể hiện ở chỗ toàn bộ HĐHC hướng tới phục vụ đầy đủ các nhu cầu vật chất cho sinh hoạt và chiến đấu của quân đội, giúp cho quân đội có đủ điều kiện chiến đấu và chiến thắng. Tình chình trị của HĐHC còn thể hiện ở chỗ HĐHC đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đảng các cấp trong quân đội nhằm bảo đảm cho HĐHC đúng phương hướng chình trị, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chình trị đặt ra. Tình chất quân sự của HĐHC thể hiện ở chỗ mọi HĐHC đều hướng tới thực hiện các nhiệm vụ quân sự, bảo đảm đầy đủ các nhu cầu vật chất cho hoạt động quân sự, bao gồm các hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu Mặt khác, HĐHC diễn ra trong môi trường quân sự, bị chi phối bởi hoạt động quân sự cả về mục đìch và tình chất hoạt động của nó. Trong môi trường quân sự, HĐHC mang đầy đủ đặc trưng của hoạt động quân sự như diễn ra trong những điều kiện khó khăn phức tạp, với những tính huống diễn biến mau lẹ, phải đối mặt với âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, tình tổ chức, tình kỷ luật nghiêm ngặt Hơn nữa, bản thân HĐHC cũng là hoạt động quân sự. Ví để hoàn thành nhiệm vụ của mính, nhất là trong chiến đấu, các đơn vị hậu cần không chỉ thuần tuý làm nhiệm vụ bảo đảm mà các đơn vị đó vừa làm nhiệm vụ bảo đảm, vừa phải tổ chức bảo vệ lực lượng phương tiện hậu cần của mính khỏi sự tấn công tiêu diệt của đối phương; đồng thời sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Tình chất kinh tế - tài chình của HĐHC thể hiện ở chỗ toàn bộ HĐHC quân đội là khâu nối liền nền kinh tế đất nước, hậu phương với tiền tuyến, với lực
- 9 lượng vũ trang” [39, tr.17]. HĐHC là hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn lực kinh tế phục vụ cho hoạt động quân sự và chiến tranh. HĐHC, do đó vừa tuân thủ các qui luật, nguyên tắc của hoạt động quân sự, nhất là các qui luật chiến tranh, vừa bị chi phối bởi các qui luật kinh tế, như qui luật cung cầu, qui luật giá trị Tuy nhiên tình chất kinh tế của HĐHC khác về căn bản với hoạt động của các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nếu như các ngành kinh tế đặt lợi nhuận, hiệu quả kinh tế lên hàng đầu thí HĐHC lại đặt hiệu quả chình trị – xã hội lên hàng đầu. Mục đìch của HĐHC là phục vụ cho quân đội chiến đấu và chiến thắng. Tình chất khoa học - kỹ thuật của HĐHC thể hiện ở chỗ tất cả mọi HĐHC như: quân nhu, xăng dầu, vận tải, quân y đều là hoạt động khoa học kỹ thuật, đòi hỏi cao về trính độ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của CB, CS, nhân viên ngành hậu cần. Hai là, HĐHC là hoạt động phục vụ. HĐHC là hoạt động quân sự nhưng chức năng cơ bản của nó không phải là chiến đấu mà là bảo đảm các nhu cầu vật chất cho sinh hoạt và chiến đấu của bộ đội. HĐHC trực tiếp bảo đảm các nhu cầu ăn, mặc, ở, y tế, cơ động của bộ đội, đảm nhiệm chuyên chở vũ khì đạn dược theo yêu cầu của các ngành khác và của người chỉ huy quân sự. Nhiệm vụ chình của HĐHC là “phụng sự đại đa số bộ đội” [19, tr.296]. Ba là, HĐHC có sự kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm hậu cần của nhà nước với hậu cần quân đội, kết hợp giữa hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, hậu cần Trung ương với hậu cần địa phương, hậu cần cơ động với hậu cần tại chỗ. Sức mạnh bảo đảm hậu cần là sức mạnh tổng hợp. Nguồn lực cơ bản để bảo đảm hậu cần là nhà nước và nhân dân. Nhà nước bảo đảm ngân sách cho toàn bộ các hoạt động xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân vừa cung cấp nguồn nhân lực vừa cung cấp các nguồn vật chất, trang bị cho HĐHC quân đội. Sự kết hợp các phương thức, các lực lượng bảo đảm hậu cần đã giúp cho ngành hậu cần quân đội khắc phục được sự khó khăn thiếu thốn về nguồn bảo đảm, về lực lượng, phương tiện vận chuyển, cấp phát hoàn thành được nhiệm vụ phục vụ bộ đội chiến đấu và chiến thắng. Hiện nay và trong tương lai việc phát