Tóm tắt Luận án Hoạt động dạy và học Tiếng Anh: Ảnh hưởng từ bài thi chuẩn đầu ra? – một nghiên cứu tại ĐHQGHN
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt Luận án Hoạt động dạy và học Tiếng Anh: Ảnh hưởng từ bài thi chuẩn đầu ra? – một nghiên cứu tại ĐHQGHN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tom_tat_luan_an_hoat_dong_day_va_hoc_tieng_anh_anh_huong_tu.pdf
Nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Hoạt động dạy và học Tiếng Anh: Ảnh hưởng từ bài thi chuẩn đầu ra? – một nghiên cứu tại ĐHQGHN
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC KHOA QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG NGUYỄN THÚY LAN HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH: ẢNH HƯỞNG TỪ BÀI THI CHUẨN ĐẦU RA? – MỘT NGHIÊN CỨU TẠI ĐHQGHN TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC HÀ NỘI – 2019
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC KHOA QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG NGUYỄN THÚY LAN HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH: ẢNH HƯỞNG TỪ BÀI THI CHUẨN ĐẦU RA ? – MỘT NGHIÊN CỨU TẠI ĐHQGHN TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC Chuyên ngành: Đo lường và đánh giá trong giáo dục Mã số: 9140115 GVHD 1: GS. TS. Nguyễn Quý Thanh GVHD 2: PGS. TS. Nguyễn Thúy Nga HÀ NỘI – 2019
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ năm 2014, Đại học quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) có quy định chặt chẽ về chuẩn đầu ra tiếng Anh đối với sinh viên hệ đào tạo chuẩn. Năm 2015, bài thi đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh dành cho người Việt Nam (VSTEP) chính thức trở thành công cụ xác định chuẩn đầu ra tiếng Anh cho tất cả sinh viên ĐHQGHN. Tuy nhiên, hầu như chưa có nghiên cứu quy mô nào nhằm xác định mức độ tác động của bài thi đối với quá trình dạy và học tiếng Anh trên toàn ĐHQGHN nói riêng và cả nước nói chung. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Hoạt động dạy và học tiếng Anh: ảnh hưởng từ bài thi chuẩn đầu ra? – Một nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội” làm nội dung nghiên cứu của luận án. 2. Bối cảnh nghiên cứu ĐHQGHN bao gồm 7 trường đại học thành viên và 5 khoa trực thuộc. Việc giảng dạy ngoại ngữ trong ĐHQGHN do trường ĐHNN phụ trách. Trong chương trình đào tạo trình độ đại học điều chỉnh năm 2015, chương trình đào tạo chuẩn có 3 học phần Tiếng Anh cơ sở chiếm 19 tín chỉ. Sinh viên có quyền đăng ký học tại trường hoặc các cơ sở ngoài trường với điều kiện đáp ứng đủ chuẩn đầu ra ngoại ngữ (bậc 3 đối với sinh viên hệ chuẩn, không thuộc chuyên ngành Ngôn ngữ Anh và Sư phạm tiếng Anh). Bài thi VSTEP 3 được tổ chức ở cuối học phần Tiếng Anh cơ sở 3 để đo trình độ B1 hay bậc 3/6 tiếng Anh của sinh viên. Bài thi gồm có 4 phần: Nghe, Nói, Đọc, Viết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của nghiên cứu này gồm: (i) tìm hiểu liệu bài thi xác định chuẩn đầu ra tiếng Anh có ảnh hưởng tới hoạt động dạy và học tiếng Anh trong ĐHQGHN hay không, (ii) nếu có ảnh hưởng thì các yếu tố nào ảnh hưởng tới quá trình đó. Theo đó, tác giả hy vọng sẽ phác họa được một phần bức tranh tổng thể việc dạy và học tiếng Anh tại ĐHQGHN. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Giảng viên tiếng Anh của trường ĐHNN-ĐHQGHN và sinh viên học chương trình Tiếng Anh cơ sở của ĐHQGHN. Đối tượng nghiên cứu: Bài thi tiếng Anh xác định chuẩn đầu ra và ảnh hưởng của bài thi tới quá trình dạy và học tiếng Anh tại ĐHQGHN. 5. Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi 1: Các ảnh hưởng (nếu có) của bài thi xác định chuẩn đầu ra tiếng Anh (VSTEP) đối với việc học tiếng Anh tại ĐHQGHN là gì? Cụ thể: 1.1. Những yếu tố thuộc bài thi ảnh hưởng thế nào tới hoạt động học tiếng Anh tại ĐHQGHN?; 1.2. Trong bối cảnh phải thi bài thi xét CĐR tiếng Anh, những yếu tố cá nhân của sinh viên ảnh hưởng tới hoạt động học tiếng Anh như thế nào?. Câu hỏi 2: Các ảnh hưởng (nếu có) của bài thi xác định chuẩn đầu ra tiếng Anh 1
- (VSTEP) đối với hoạt động dạy tiếng Anh tại ĐHQGHN là gì? Cụ thể: 2.1. Những yếu tố thuộc bài thi ảnh hưởng thế nào tới hoạt động dạy tiếng Anh tại ĐHQGHN?; 2.2. Trong bối cảnh sinh viên phải thi bài thi xét CĐR tiếng Anh, những yếu tố cá nhân của giảng viên ảnh hưởng tới hoạt động dạy tiếng Anh của họ như thế nào? 6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu các ảnh hưởng của bài thi xác định CĐR tiếng Anh đối với hoạt động dạy và học tiếng Anh cho đối tượng sinh viên không chuyên tiếng Anh, ở bậc đại học, theo học chương trình Tiếng Anh cơ sở trong ĐHQGHN. 7. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu kết hợp: kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính ở các bước thu thập và phân tích số liệu. Công cụ thu thập số liệu: bảng hỏi và phỏng vấn bán cấu trúc. Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng các phần mềm xử lý số liệu SPSS, AMOS; phân tích, đánh giá, bình luận, tổng kết dựa trên các ý kiến trả lời phỏng vấn và kết quả thu được từ điều tra bằng phiếu hỏi. 8. Những đóng góp mới của luận án Ở Việt Nam, đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá toàn diện ảnh hưởng của bài thi quan trọng tới hoạt động dạy và học tiếng Anh. Luận án cũng góp phần áp dụng một hướng phân tích dữ liệu mới trong lĩnh vực nghiên cứu KTĐG ngoại ngữ ở Việt Nam: sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính/mô hình mạng (SEM). Về lý luận, luận án làm rõ thêm nội hàm của một số khái niệm cơ bản liên quan đến ảnh hưởng của bài thi mang tính quyết định tới hoạt động dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam. Về thực tiễn, luận án xác định được thực trạng dạy và học tiếng Anh trong ĐHQGHN khi đứng trước những quy định đối với sinh viên tốt nghiệp phải đạt được yêu cầu cao về CĐR ngoại ngữ. 9. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, các công trình khoa học của tác giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm có 5 chương: Chương 1: Tổng quan và cơ sở lí luận về ảnh hưởng của bài thi xác định chuẩn đầu ra tiếng Anh đối với hoạt động dạy và học tiếng Anh tại ĐHQGHN; Chương 2: Phương pháp nghiên cứu; Chương 3: Kết quả nghiên cứu; Chương 4: Bàn luận và Chương 5: Kết luận và khuyến nghị. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Chuẩn đầu ra (learning outcomes) Chuẩn đầu ra là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong giáo dục đại học trên thế giới. Các nghiên cứu đều thống nhất có ba loại khái niệm về chuẩn đầu ra (CĐR): CĐR của hoạt động 2
- dạy học, CĐR của khóa học ngắn và CĐR của chương trình đào tạo (CTĐT). Khái niệm CĐR được dùng phổ biến ở Việt Nam và cũng được dùng trong nghiên cứu này là CĐR của CTĐT. 1.1.2. Hoạt động dạy và học Hoạt động dạy là một mặt của quá trình dạy và học do người giáo viên thực hiện theo nội dung chương trình đào tạo đã định nhằm giúp người học đạt được các mục tiêu theo từng bài học hay toàn khóa đào tạo. Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của sinh viên để chuẩn bị hành trang về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, giúp họ sẵn sàng bước vào môi trường lao động tro ng tương lai. 1.1.3. Bài thi mang tính quyết định (high-stake test) Bài thi mang tính quyết định là một bài thi mà kết quả được sử dụng để đưa ra những quyết định quan trọng ảnh hưởng tới người học, người dạy, các nhà quản lý, cộng đồng. Xét theo định nghĩa trên, bài thi đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh (VSTEP) là một bài thi mang tính quyết định (a high-stakes test). 1.1.4. Ảnh hưởng của bài thi trong KTĐG Trong lĩnh vực KTĐT, cần phân biệt: “Hệ quả” (consequence), “Ảnh hưởng” (washback) và “Tác động” (impact). “Tác động” và “Ảnh hưởng” chỉ ảnh hưởng của KTĐG đối với việc dạy và học với những mức độ khác nhau. “Tác động” nói đến những ảnh hưởng đối với toàn bộ hệ thống giáo dục. “Ảnh hưởng” xem xét việc sử dụng bài thi làm thay đổi việc dạy và học trong phạm vi lớp học. Có một số cách phân loại “ảnh hưởng”. Cách phân loại thứ nhất: “ảnh hưởng tới người học” và “ảnh hưởng tới chương trình”. Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến nhất vẫn dựa trên chất lượng của việc thiết kế bài thi: “ảnh hưởng tích cực”, “ảnh hưởng tiêu cực”, “ảnh hưởng trung tính”. 1.2. Lược sử nghiên cứu hiện tượng ảnh hưởng của bài thi Lịch sử nghiên cứu vấn đề bắt đầu từ năm 1950. Nghiên cứu trong giai đoạn đầu (1980 – 1999) làm rõ: liệu có tồn tại khái niệm “ảnh hưởng của bài thi”? Trong giai đoạn 2000 – 2005, tập trung nghiên cứu quan điểm của người dạy, người học và bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng. Từ năm 2006 đến nay, khai thác khía cạnh “ảnh hưởng” ở tầm vĩ mô, bàn luận nhiều hơn những ảnh hưởng về mặt xã hội. 1.3. Các nghiên cứu liên quan 1.3.1. Nghiên cứu về ảnh hưởng của bài thi đối với quá trình dạy Luận án phân tích, tổng hợp một số nghiên cứu trên thế giới về ảnh hưởng của bài thi tiếng Anh đối với quá trình dạy học của giáo viên ở nhiều bối cảnh giáo dục khác nhau trên thế giới, ví dụ: Mỹ, Tây Ban Nha, Colombia, Israel, Uganda, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, v.v. Phương 3
- pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm sử dụng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát lớp học, nhật ký. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng một bài thi tiếng Anh có tầm quan trọng lớn sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động giảng dạy tiếng Anh. Phần lớn các tác giả đều đồng ý với quan điểm cho rằng những ảnh hưởng rõ nét nhất của bài thi được nhận ra ở tài liệu giảng dạy và hoạt động giảng dạy. Giáo viên thường sử dụng tài liệu liên quan đến bài thi làm tài liệu giảng dạy; các hoạt động trong lớp có định hướng giống bài thi; giáo viên thay đổi nội dung bài học để phản ánh đúng bài thi. Về phương pháp giảng dạy, khi xuất hiện bài thi quan trọng, giáo viên dành phần lớn thời gian trong lớp luyện tập các kỹ năng được thi, giáo viên thường xuyên giao nhiều bài tập để chuẩn bị cho kỳ thi. Phương pháp Ngữ pháp – Dịch (Grammar – Translation) được sử dụng rất phổ biến. Các tác giả cũng cho rằng nếu muốn sử dụng một bài thi quan trọng để làm thay đổi phương pháp giảng dạy thì quá trình diễn ra rất chậm chạp, khó khăn và không nhận được nhiều hưởng ứng từ phía giáo viên. Nhiều nghiên cứu kết luận bài thi không phải là một đòn bẩy tốt để tạo ra những thay đổi về mặt phương pháp giảng dạy. Sở dĩ như vậy vì các nhà nghiên cứu cho rằng hiện tượng “ảnh hưởng của bài thi” là một hiện tượng phức tạp. Bản thân bài thi không làm ảnh hưởng tới hành vi của giáo viên mà chính niềm tin, sự đánh giá của giáo viên về những thay đổi của kỳ thi sẽ ảnh hưởng tới phương pháp giảng dạy của họ. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn của giáo viên là: sự hỗ trợ của nhà trường, phương pháp sư phạm được đào tạo, kinh nghiệm giảng dạy, trình độ ngôn ngữ và nhu cầu phát triển chuyên môn của bản thân giáo viên. 1.3.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của bài thi đối với quá trình học Bên cạnh những nghiên cứu về tác động của bài thi với quá trình dạy, có một số nghiên cứu đề cập đến tác động của bài thi tới quá trình học. Các nghiên cứu được tham khảo trong luận án nghiên cứu hiện tượng ảnh hưởng của bài thi tới hoạt động học tiếng Anh của học sinh và sinh viên tại Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Yemen, Brazil, v.v. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm sử dụng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát lớp học, nhật ký. Các nghiên cứu tìm ra cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của bài thi đối với người học tiếng Anh. Về mặt tích cực, người học tự nhận thấy mình học tập tích cực hơn khi kỳ thi đến gần. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động học có thể được cải thiện khi áp dụng kỹ thuật kiểm tra đánh giá trực tiếp. Về mặt tiêu cực, rất nhiều học sinh cảm thấy phải chịu áp lực quá lớn khi tham gia các kỳ thi đánh giá năng lực tiếng Anh. Sự căng thẳng này không phải chỉ bắt nguồn từ tầm quan trọng của bài thi mà còn từ độ khó của bài thi, thiếu tài liệu học tập, thiếu giáo viên và nhiều yếu tố khác. Học sinh tìm đến những lớp học thêm để ôn luyện. Trong khi đó, 4
- điểm số của bài thi không phản ánh được năng lực tiếng Anh thật sự và câu hỏi trắc nghiệm không giúp nâng cao năng lực ngoại ngữ. Các tác giả phát hiện ra rằng học sinh chỉ có động lực thực dụng khi học tiếng Anh để chuẩn bị cho các bài thi. 1.4. Các mô hình lý thuyết về hiện tượng ảnh hưởng của bài thi Cho đến nay chưa có một khung lý thuyết nào miêu tả và phân tích đầy đủ cơ chế ảnh hưởng của bài thi tới hoạt động dạy và học ngoại ngữ. Các khung lý thuyết đề cập trong luận án này thể hiện sự dịch chuyển trong quan điểm của các nhà nghiên cứu. Càng ngày các khung lý thuyết càng trở nên rõ ràng và đầy đủ hơn khi các nhà nghiên cứu nhận ra rằng: ảnh hưởng của KTĐG không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của công cụ KTĐG, cách sử dụng kết quả mà còn phụ thuộc vào bối cảnh và niềm tin của những bên liên quan. 1.5. Khung lý thuyết của nghiên cứu Ở các khung lý thuyết trước đây, một điểm hạn chế là các khung không đề cập đến vai trò của niềm tin, thái độ, kiến thức sẵn có về bài thi và ngôn ngữ đang học của những người tham gia. Trong khung lý thuyết của nghiên cứu hiện thời, tác giả sẽ đề cập đến các yếu tố mang tính cá nhân của người tham gia (như niềm tin, thái độ, động lực, kiến thức) như là một trong các yếu tố trung gian góp phần tạo nên ảnh hưởng của bài thi. 1.5.1. Khung lý thuyết về hoạt động dạy 5
- Hình 1.11. Khung lý thuyết về hoạt động dạy của luận án Luận án sử dụng mô hình Niềm tin – Giả định – Kiến thức (Beliefs – Assumptions – Knowledge (BAK)) của Shulman (1987) và mô hình của Woods về Niềm tin – Giả định – Kiến thức (1996) khi giải thích hoạt động giảng dạy của giáo viên (Teacher practice) để xây dựng khung lý thuyết về hoạt động dạy. 1.5.2.Khung lý thuyết về hoạt động học Hình 1.12. Khung lý thuyết về hoạt động học của luận án Đã có nhiều nghiên cứu trước đây tìm hiểu vai trò của động lực (motivation) trong việc quyết định chất lượng học tập ngoại ngữ của sinh viên nói chung và kết quả làm bài thi ngoại ngữ nói riêng. Tuy nhiên, lý thuyết nhận thức xã hội (Social Cognitive Theory) vẫn còn chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy, luận án sử dụng hai lý thuyết về Động lực học tập để làm khung lý thuyết và xây dựng bảng hỏi: Thuyết động lực thâm nhập và động lực thực dụng (Integrative and Instrumental Motivation) (Gadner & Lambert, 1959) và Thuyết tạo động lực bằng nỗi sợ hãi (Fear Appeal Theory) (Johnston & Warkentin, 2010). CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6
- 2.1. Thiết kế nghiên cứu của nghiên cứu hiện thời Phương pháp nghiên cứu kết hợp được sử dụng trong khá nhiều nghiên cứu về hiện tượng ảnh hưởng. Khi sử dụng các kỹ thuật định lượng và định tính trong cùng một khung lý thuyết, phương pháp kết hợp sẽ phát huy được điểm mạnh của cả hai cách tiếp cận. Luận án kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính ở các bước thu thập và phân tích số liệu. Thu thập số liệu định lượng bao gồm số liệu từ bảng hỏi. Thu thập số liệu định tính bao gồm phỏng vấn sâu và phân tích các tài liệu liên quan đến bài thi VSTEP và chương trình học của các học phần Tiếng Anh cơ sở trong chương trình đào tạo (CTĐT) của ĐHQGHN. 2.2. Mẫu nghiên cứu Nghiên cứu hiện thời áp dụng chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm nhiều giai đoạn. Cỡ mẫu sinh viên được tính toán theo công thức với các chỉ số về Sai số tối thiểu: 4%, Độ tin cậy tối thiểu: 95%, cỡ mẫu cần là 585. Tính thêm 10% mẫu dự trữ, tối thiểu cỡ mẫu cần lấy là 644 sinh viên. Tiêu chuẩn lựa chọn của Giảng viên tiếng Anh là: giảng viên của khoa tiếng Anh – ĐHNN, ĐHQGHN có kinh nghiệm bắt đầu giảng dạy tiếng Anh cho đối tượng sinh viên không chuyên tiếng Anh từ năm 2015. Sinh viên: không theo học chuyên ngành tiếng Anh, thuộc các CTĐT của các trường/khoa thành viên của ĐHQGHN. Tất cả những người được mời tham gia nghiên cứu đều tự nguyện và sẵn sàng chia sẻ thông tin. Sinh viên: Nghiên cứu phát đi 900 bảng hỏi và thu lại 751 bảng hỏi, như vậy số lượng bảng hỏi thu được vượt quá con số cỡ mẫu tính toán theo công thức với 10% dự phòng (644). Tỉ lệ thu hồi (return rate) là 83.4%. 47.9% sinh viên đang theo học TACS 2. Bảng 2.2. trình bày số mẫu cần lấy ở mỗi cơ sở đào tạo và số mẫu thực tế thu được. Bảng 2.2. Tỉ lệ đáp viên theo cơ sở đào tạo STT Đơn vị Quy mô Tỉ lệ Mẫu cần lấy Mẫu thu được 1 Trường ĐH Công nghệ 3012 17.3% 130 102 (78.5%) 2 Trường ĐH KHTN 3843 22.1% 166 154 (92.8%) 3 Trường ĐH KHXHNV 5480 31.5% 236 264 (111.9%) 4 Trường ĐH Ngoại ngữ 5071 29.1% 219 230 (105.1%) Tổng 17406 100.0% 751 751 Giảng viên: Tổng thể mẫu của đối tượng giảng viên tương đối ít (93 giảng viên) nên nghiên cứu lấy mẫu tổng thể là toàn bộ giảng viên của Đại học Ngoại ngữ chịu trách nhiệm giảng 7
- dạy tiếng Anh cho các trường/khoa thuộc ĐHQGHN. Trong tổng số 93 bảng hỏi thu được, 89 đáp viên đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. 100% đều có kinh nghiệm dạy ở cả 3 học phần. 2.3. Công cụ nghiên cứu 2.3.1. Bảng hỏi Bảng hỏi sử dụng thang Likert 6 điểm (Likert, 1932). Chomeya (2010) cho rằng thang Likert 6 điểm có xu hướng có độ phân biệt và độ tin cậy cao hơn thang Likert 5 điểm. Bảng hỏi của nghiên cứu hiện tại sẽ sử dụng hình thức câu hỏi đóng. 2.3.1.1. Bảng hỏi dành cho sinh viên Bảng hỏi được phát triển dựa trên các khung lý thuyết như: Lý thuyết tạo động lực của Gardner và Lambert (1959), Lý thuyết tạo động lực bằng nỗi sợ hãi của Johnston (2010). Một số câu hỏi trong bảng hỏi được tham khảo từ các bảng hỏi đã được phát triển và kiểm chứng độ tin cậy, độ giá trị và tính thực tiễn trong các bối cảnh khác nhau như Hàn Quốc (Wang, 2010) hay Iran (Mahmoudi, 2014). Bảng hỏi được thử nghiệm trên 40 đối tượng, thời gian trung bình để hoàn thiện bảng hỏi đối với sinh viên là 15 phút. Qua phỏng vấn, đối tượng nghiên cứu cho rằng thời gian như thế là phù hợp, không gây trở ngại gì cho quá trình thực hiện. Để tính toán độ tin cậy bên trong, nghiên cứu sử dụng chỉ số Cronbach’s alpha theo phân loại của George và Mallery (2003, tr.231). Các nhận định trong bảng hỏi của người học đều đạt độ tin cậy từ mức Tốt (0.756 – 0.848). Luận án tiến hành chuẩn hóa bảng hỏi và thu được kết quả: các nhận định trong bảng hỏi đều có độ lệch chuẩn, giá trị độ lệch (Skewness) và độ nhọn “Kurtosis” đều nằm trong khoảng chấp nhận được ±2 (George & Mallery, 2010). Điều này chứng tỏ số liệu của các nhận định được phân bố chuẩn. Luận án cũng đánh giá độ tin cậy của các nhận định thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha để xem xét liệu tập hợp các biến quan sát có khả năng đo được và thể hiện chính xác được tính chất của nhân tố mẹ và mức độ tương quan chặt chẽ giữa các biến quan sát trong cùng 1 nhân tố. Theo Nunally (1978), một biến quan sát có hệ số tương quan biến thể (Corrected Item – Total Correlation) ≥ 0.3 thì biến đó đạt yêu cầu. Mức giá trị của hệ số Cronbach’s Alpha được áp dụng theo giá trị mà George và Mallery (2003, tr.231) đề xuất. Với, các nhận định liên quan đến Yếu tố người học, luận án loại bỏ 2 biến DL1_1 và NT5_1 để tăng độ tin cậy của thang đo. Có 2 biến NT2_1 và NT3_1 có hệ số tương quan biến tổng < 0.3 (lần lượt là 0.24 và 0.25) nhưng xét về mặt nội dung 2 biến này rất quan trọng và có chất lượng nên tác giả quyết định vẫn giữ lại 2 biến này. Về các nhận định thuộc Yếu tố bài thi, kết quả kiểm định cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha = 0.798 > 0.7 và các biến đều có hệ số tương quan biến tổng > 0.3 nên thang đo “Yếu tố bài thi” đạt điều kiện về độ tin cậy. Trong các nhận 8

